Lịch sử các học thuyết Chủ_nghĩa_xã_hội_thị_trường

Những dạng sơ khai của chủ nghĩa xã hội thị trường được phát triển bởi Enrico Barone (1908)[3][4] and Oskar R. Lange (c. 1936).[5] Lange and Fred M. Taylor[6] đề xuất những cơ quan kế hoạch trung ương xác định giá bằng phương thức "thử và sửa sai", để điều chỉnh giá mỗi khi xảy ra thiếu hụt (shortages) hoặc là thặng dư (surpluses) hơn là dựa vào một cơ chế định giá tự do (free price mechanism). Nếu xảy ra thiếu hụt thì nâng giá lên; nếu có thặng dư thì hạ giá xuống.[7] Tăng giá sẽ khuyến khích doanh nghiệp gia tăng sản xuất, bởi ham muốn tăng lợi nhuận, và trong quá trình đó sẽ bù đắp mọi thiếu hụt. Giảm giá sẽ khiến cho doanh nghiệp cắt giảm sản xuất để tránh lỗ lã, theo đó sẽ chấm dứt tình trạng thặng dư. Như thế cũng giống như một kích thích "tác động bên ngoài" cho cơ chế thị trường. Bằng những tác động (quyết định hành chính) này, nhà nước có thể quản lý hữu hiệu cung và cầu của nền kinh tế.[8] nhưng lại không thể hưu hiệu và hiệu quả như là trong một cơ chế thị trường tự do không bị tác động bởi các quyết định hành chính của nhà nước. Bởi lẽ, mọi quyết định của nhà nước đều phải tốn thời gian họp hành ra quyết định và vì thế cộng thêm một độ trễ (delay) cho sự hoạt động của thị trường, khiến hoạt động thị trường bị đình trệ dẫn đến rối loạn về giá, dẫn đến rối loạn cung cầu không theo ý nhà nước. Ngoài ra, các quyết định về giá còn bị ảnh hưởng bởi các cơ chế chính trị trong nội bộ nhà nước. Các doanh nghiệp tham gia thị trường bị khống chế lợi tức (không quá lời, cũng không quá lỗ) nên mọi hình thức sảng tạo, cải tiến sản phẩm, hoặc nghiên cứu cho ra đời sản phẩm mới đều bị triệt tiêu dẫn đến xã hội chậm phát triển khoa học kỹ thuật bị tụt hậu. Hơn nữa, các doanh nghiệp còn phải gánh chi phí của bộ máy định giá này, cho nên cũng không mấy mặn mà sản xuất, dẫn đến nền kinh tế trì trệ.

Một dạng thứ nhì của chủ nghĩa xã hội thị trường được gọi là "chủ nghĩa xã hội thị trường tự do" (free market socialism) bởi vì nó không cần các cơ quan làm kế hoạch tập trung hay định giá.[9][10] Pierre-Joseph Proudhon phát triển một hệ thống trên lý thuyết gọi là lý thuyết kinh tế tập thể (mutualism), trong đó chỉ trích sự hợp lệ của những quyền sở hữu tài sản, trợ giá, công ty trách nhiệm hữu hạn, ngân hàng, và cho thuê. Proudhon hình dung ra một thị trường phi tập trung trong đó mọi người sẽ tham gia vào thị trường với nguồn lực như nhau, từ đó không còn sự thuê mướn nhân công, một dạng nô lệ có trả lương.[11] Những người ủng hộ học thuyết này tin rằng các hợp tác xã, các liên minh tín dụng và các hình thức làm chủ tập thể khác của công nhân sẽ trở nên mạnh mẽ mà không chịu ảnh hưởng của nhà nước. Chủ nghĩa xã hội thị trường cũng còn được dùng để mô tả một vài bài viết về sự độc tài cá nhân[12] trong đó lập luận rằng thị trường tự do sẽ tăng sức mạnh của công nhân và giảm ảnh hưởng của các nhà tư bản.

H.D.Dickinson đã viết 2 bài luận đề xuất một dạng khác của chủ nghĩa xã hội nhan đề "Price Formation in a Socialist Community" -tạm dịch Sự hình thành Giá cả trong Cộng đồng Xã hội chủ nghĩa- (The Economic Journal 1933) và "The Problems of a Socialist Economy" -tạm dịch Những Vấn đề của Kinh tế Xã hội chủ nghĩa- (The Economic Journal 1934). Dickinson đề xuất một giải pháp toán học theo đó những vấn đề của kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể được xử lý bới một cơ quan kế hoạch trung ướng. Cơ quan kế hoạch trung ương này phải nắm bắt được những chỉ số thống kê chính xác của nền kinh tế, cũng như có khả năng dùng những con số thống kê này để hoạch định mọi kế hoạch sản xuất cho nền kinh tế. Nền kinh tế có thể được "diễn đạt" bằng một hệ thống những phương trình. Những nghiệm số của hệ phương trình này có thể được ứng dụng để áp đặt giá cho mọi thứ sản phẩm sản xuất ra theo kế hoạch tập trung của nền kinh tế này. Giá sẽ được áp đặt tương đương với chi phí sản xuất ra sản phẩm. Tuy nhiên, Hayek (1935) đã lý luận phản biện lại những đề xuất về diễn đạt nền kinh tế bằng những hệ phương trình như của Dickinson. Sau đó, Dickinson đã có những nghiên cứu dựa trên các đề xuất của cặp tác giả Lang-Taylor về thử nghiệm các hoạt động của thị trường bằng các phương pháp "thử và sửa sai" (trials and errors).

Khi đầu tư vốn (capital investment) do nhà nước chứ không phải do giới chủ doanh nghiệp quyết định, thì cơ quan kế hoạch trung ương sẽ dựa trên tiêu chí nào ? Những đề xuất của cặp tác giả Lange-Dickinson về chủ nghĩa xã hội thị trường đặt đầu tư vốn (capital investment) ra ngoài thị trường. Tác giả Lange (1926 trang 65) cho rằng cơ quan kế hoạch trung ương có thể chỉ định con số tỷ lệ tích lũy vốn (capital accumulation rates) theo phương thức chủ quan nào đó (arbitrarily). Lange và Dickinson đã tiên đoán những vấn đề của chủ nghĩa xã hội thị trường phát sinh từ những nguyên tắc hành chính. Theo Dickinson, "việc cố gắng kiểm soát những sự vô trách nhiêm sẽ khiến các nhà quản lý trong hệ thống doanh nghiệp xã hội chủ nghĩa bị bó buộc bởi những nguyên tắc nhiêu khê và những 'rừng' luật lệ hành chính đến nỗi khiến họ sẽ mất hết tất cả tự chủ và độc lập" (Dickinson 1938 trang 214). Trong tác phẩm nhan đề Economics of Control (1944) -tạm dịch Những nền Kinh tế của kiểm soát- tác giả Abba Lerner chấp nhận rằng đầu tư vốn (capital investment) sẽ bị chính trị - quyền lợi hóa trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường.

Mặc dù có tên gọi tương tự, nhưng 'chủ nghĩa xã hội thị trường' khác hẳn với những nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (socialist market economy) đang được Trung Quốc thi hành, và cũng khác với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Socialist-oriented market economy) đang được Việt Nam thi hành. Sự khác biệt là ở chỗ 'chủ nghĩa xã hội thị trường' sử dụng cơ chế thị trường (market mechanism) hoàn chỉnh hơn những cơ chế mang dáng dấp 'thị trường' ở Trung Quốc và Việt Nam.

Những người theo lý thuyết kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường lập luận rằng nền kinh tế này kết hợp được những ưu điểm của kinh tế thị trường (market economy) với những ưu điểm của kinh tế xã hội chủ nghĩa (socialist economics). Những mô hình được đề xuất bao gồm Xã hội chủ nghĩa Tem phiếu ('Coupon Socialism') bởi nhà kinh tế John Roemer và Dân chủ Kinh tế (Economic Democracy) bởi triết gia David Schweickart.

Bardham và Roemer đề cập đến một dạng nữa của 'chủ nghĩa xã hội thị trường' gồm có 1 thị trường đặc biệt (giống như thị trường chứng khoán) dùng để phân phối vốn một cách công bằng cho các công nhân (người lao động). Trong thị trường vốn 'đặc biệt' này, không có 'cổ phiếu' nào sang tay để tránh tình trạng tập trung vốn vào tay nhà nước. Mô hình của Bardham và Roemer thoả mãn những yêu cầu chủ đạo của cả hai cơ chế: Xã hội chủ nghĩa (người lao động làm chủ mọi phương tiện sản xuất và làm chủ vốn) và Kinh tế thị trường (giá cả sẽ quyết định sự điều động & tập trung vốn đầu tư trong xã hội). Một kinh tế gia New Zealand, Steven O'Donnell, mở rộng dựa trên mô hình của Bardham và Roemer và chia nhỏ chức năng 'phân phối vốn' thành những hệ thống tự quản (tự quân bình) để ghi nhận và hoạt động dựa trên những hoạt động kinh doanh sáng tạo trong kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. O'Donnell (2003) sáng tạo ra một mô hình có thể dùng cho những nền kinh tế chuyển tiếp (quá độ) và kết quả cho thấy: 'kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường' có tính chất ưu việt trong thời gian ngắn hạn để tạo dựng cơ sở hạ tầng, nền móng cần thiết để chuyển tiếp, quá độ đi lên 'kinh tế thị trường', bởi vì 'kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường' có nhiều nhân tố nội tại gây bất ổn về mặt lâu dài nên nó chỉ thích hợp trong một thời gian ngắn ngủi nhằm phục vụ mục đích chuyển tiếp.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chủ_nghĩa_xã_hội_thị_trường http://mutualist.blogspot.com/2006/01/eugene-plawi... http://mutualist.blogspot.com/2006/07/js-mill-mark... http://www.forbes.com/2008/07/08/china-enterprises... http://us.ft.com/ftgateway/superpage.ft?news_id=ft... http://books.google.com/books?id=QV2OJqbt45oC&pg=P... http://books.google.com/books?id=RPo4_dUeHAAC&pg=P... http://books.google.com/books?id=dqcoCqFrZFYC&pg=P... http://books.google.com/books?id=fMGjVbg_mOAC&pg=P... http://books.google.com/books?id=m3QMGLrRbSAC&pg=P... http://docs.google.com/gview?a=v&q=cache:tWl8XGM_v...